Trong bài viết sau, chủ biên, giảng viên cấp cao, Tiến sĩ Nguyễn Văn Thăng Long đến từ Khoa Truyền thông và Thiết kế, Đại học RMIT Việt Nam chia sẻ những điểm nổi bật của sách trắng.
Theo một nghiên cứu do We Are Social thực hiện, đến năm nay, tỉ lệ thâm nhập internet của Việt Nam xếp thứ 39 toàn cầu, với cao điểm gần đây nhất đạt 79%, tương đương với hơn 77 triệu người dùng trực tuyến. Không chỉ tăng mạnh ở số người dùng mà tần suất sử dụng cũng tăng. Chín mươi bảy phần trăm người dùng lên mạng nhiều lần trong ngày, với tần suất trung bình là 6,4 giờ, xếp thứ 26 toàn thế giới.
Là một quốc gia có dân số trẻ, không gì phải bàn cãi khi việc có mặt trên các nền tảng trò chuyện trực tuyến và cộng đồng mạng xã hội nổi lên như một lối sống nổi trội ở Việt Nam. Báo cáo này giúp doanh nghiệp thấu hiểu làm thế nào các nền tảng trò chuyện trực tuyến và mạng xã hội đang thay đổi cuộc chơi và cách người dùng tương tác với các nền tảng này như thế nào, để chuyển đổi các hoạt động kết nối với khách hàng cũng như hoạt động kinh doanh của họ một cách hiệu quả.
Facebook và Zalo cùng nhau chia sẻ ngôi quán quân
Các mạng xã hội và nền tảng trò chuyện là những yếu tố nổi bật trong lối sống số, lần lượt thu hút 83% và 74% người dùng internet ở Việt Nam. Cả hai đều trở nên thiết yếu không chỉ đối với nhu cầu sử dụng cá nhân mà còn cho mục đích công việc và học hành nhờ tính tiện lợi, tốc độ, tính phổ biến, cũng như khả năng lưu trữ và chia sẻ tệp tin hiệu quả.
Facebook và Zalo có mức độ phổ biến tương đương nhau ở Việt Nam với tư cách nền tảng mạng xã hội, dẫu Zalo không được phân loại chính thức thuộc nhóm này. Người dùng Thế hệ Y và X dành nhiều thời gian đáng kể hơn trên Zalo, trong khi Facebook được người dùng Thế hệ Z ưa chuộng hơn. Đáng ngạc nhiên là TikTok vẫn tụt lại phía sau trong cuộc chiến thâm nhập sử dụng mạng xã hội (chiếm 51%), theo sau là Instagram (26%).
Người dùng mạng internet hiếm khi dùng một mạng xã hội để duy trì tương tác với xã hội hay cộng đồng. Việc dùng nhiều mạng xã hội cho phép họ tận dụng tính năng của từng kênh, hoặc các mối quan hệ cá nhân, xã hội và giao dịch làm ăn vì lợi ích riêng. Người dùng xem trọng các yếu tố chức năng nhất khi chọn mạng xã hội. Giao diện thân thiện với người dùng là yếu tố thúc đẩy quan trọng nhất (56%), tiếp theo là khả năng kết nối với bạn bè và người thân (55%), thông tin hữu ích (53%), bảo mật cao (52%) và phù hợp với mọi người (50%). Một số yếu tố cảm xúc khác như sự thông dụng, đáng tin cậy, hiện đại và hợp xu hướng là những tiêu chí ít phổ biến hơn mà người dùng cân nhắc khi lựa chọn mạng xã hội.
Zalo và Facebook còn cạnh tranh vị trí nền tảng trò chuyện phổ biến nhất trong cộng đồng người dùng Việt, với ngôi quán quân thuộc về Zalo (74%), theo sau sát nút bởi Facebook (73%). Hầu như trong số bốn người dùng Việt Nam sẽ có ba người sử dụng Zalo và Facebook Messenger thường xuyên.
Tính thông dụng vẫn là yếu tố tính năng được người dùng sử dụng làm căn cứ lựa chọn nền tảng trò chuyện, nhỉnh hơn một chút so với lợi ích về cảm xúc. Căn cứ lựa chọn cũng thay đổi theo độ tuổi – người dùng lớn tuổi hơn có khuynh hướng ưu tiên dùng Zalo để trò chuyện trực tuyến hơn Facebook.
Thời gian vàng cho quảng cáo
Mặc dù không còn ở thời hoàng kim, quảng cáo vẫn lôi kéo được sự chú ý của người dùng qua nội dung chứa thông tin hữu ích về thương hiệu hoặc sản phẩm, lối kể chuyện thu hút và hiệu ứng hình ảnh tốt hay âm nhạc hấp dẫn.
Thời điểm tốt nhất để thương hiệu quảng cáo tới người tiêu dùng là khi họ tìm kiếm nội dung trực tuyến (61%), tìm hiểu kiến thức mới (60%) và tìm kiếm thông tin (55%). Thời gian nghỉ ngơi, khi khách hàng xem các nội dung giải trí, thư giãn, để giết thời gian hoặc cảm thấy chán, cũng là thời điểm thích hợp để tiếp cận họ.
Người tiêu dùng hiện nay ngày càng đòi hỏi các nội dung quảng bá thương hiệu phải mang tính sáng tạo và độc đáo, và họ muốn trở thành một phần của thương hiệu để thể hiện lối sống của mình. Người tiêu dùng có nhu cầu cao trong việc kết nối với các thương hiệu và nhu cầu này khác nhau giữa các thế hệ.
Thế hệ Y sẵn sàng tiếp nhận nhiều nội dung vì họ muốn biết rõ về thương hiệu trước khi mua hàng.
Mặt khác, Thế hệ Z tương tác chủ động hơn với quảng cáo. Họ đòi hỏi thương hiệu, thông qua quảng cáo, phải bắt kịp nhịp độ năng động của họ một cách chủ động và thông qua tương tác. Thương hiệu cần lắng nghe nhu cầu của họ, đáp lại yêu cầu về nội dung và cho họ càng nhiều lựa chọn cá thể hóa càng tốt. Thế hệ Z hứng thú hơn hẳn Thế hệ Y với những nội dung quảng cáo cho phép họ thể hiện bản thân, chẳng hạn như đưa ra ý kiến hoặc thảo luận về chiến dịch mà thương hiệu đang thực hiện, hoặc bình chọn để đưa một cam kết vào thực tế.
Mạng xã hội và nền tảng trò chuyện được dùng thường xuyên hơn trong một số khung thời gian nhất định trong ngày. Các khung thời gian này cũng đi đôi với địa điểm nơi họ dùng các kênh trực tuyến này nhiều nhất: thư giãn ở nhà sau giờ làm hay giết thời gian vào giờ cơm trưa ở nơi làm việc hoặc trường học.
Quảng cáo dễ được đón nhận hơn khi người dùng kết thúc một ngày làm việc và bắt đầu nhịp sinh hoạt buổi tối. Kết hợp sự hiện diện trên mạng xã hội và các nền tảng trò chuyện theo vị trí và khung giờ, cũng như khung thời gian đón nhận quảng cáo, 8 đến 10 giờ tối là thời gian lý tưởng nhất trong ngày để quảng cáo đến người dùng Việt Nam, tiếp theo là 6 đến 8 giờ tối, 12 giờ trưa đến 2 giờ chiều và 4 giờ chiều đến 6 giờ tối.
Báo cáo còn xác định hai loại động lực (tính năng và cảm xúc) đằng sau nhu cầu của người dùng khi họ kết nối trực tuyến. Ba hạng mục chính trong động lực tính năng gồm kết nối và cập nhật, để giết thời gian và giải trí. Trong khi đó, nhu cầu cảm xúc để chỉ về cảm giác tích cực của người dùng cảm thấy về bản thân họ và khi họ kết nối với người khác.